Trung tâm gia sư quận thủ đức thấy rằng khi nhận xét về chất thép trong tập “Nhật kí trong tù”, nhà phê bình Hoài Thanh nói rằng thơ Người, không chỉ là những bài nói chuyện “thép”, lên giọng “thép” mới có tinh thần “thép”, mà cả những bài thơ chỉ nói chuyện cuộc sống nhưng bừng lên tinh thần lạc quan tự nhiên, dường như không phải cố gắng gì để đạt đến tinh thần “thép” mà vẫn mang “chất thép”. Chất thép rất đỗi tự nhiên đấy thể hiện trong khổ thơ cuối bài thơ “Tảo giải” rất rõ ràng, sinh động. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: “Văn thơ Hồ Chí Minh, từ tư tưởng đến hình tượng, luôn luôn vận động một cách tự nhiên và nhất quán hướng về ánh sáng, sự sống và tương lai.” Hướng về ánh sáng, sự sống và tương lai là biểu hiện của tinh thần thép, không bao giờ chịu khuất phục bóng tối và cái tàn tạ, chết chóc.
Trung tâm gia sư quận tân phú cho rằng nếu như khổ thơ đầu là sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa chất thơ và chất thép trong tâm hồn Bác, là sự đồng hiện của hình ảnh chiến sĩ trong bối cảnh nghiệt ngã của thiên nhiên thì khổ thơ thứ hai là hành khúc chiến thắng, là sự tôn vinh con người thi sĩ trong ánh hồng rực rỡ buổi bình minh. Giữa hai bài thơ có bước chuyển lớn lao: đi từ đêm sang ngày, từ bòng tối đến ánh sáng, từ lạnh lẽo đến ấm áp, từ gian khổ đến niềm vui. Bức tranh huy hoàng của ngày mới trong bài thơ như tất yếu được sinh ra từ bước tranh mịt mù trước đó.
“Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không.
Noãn khí bao la toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng.”
Trung tâm gia sư quận bình tân nhận thấy sự chuyển biến đột ngột của đất trời thể hiện qua từ “dĩ”, đem lại ấn tượng khỏe khoắn. Những tàn dư của bóng đêm bị xua tan đi hết, khong gian như bừng sáng sức sống và niềm vui ngự trị cả thế giới thơ, hơi ấm nồng nàn bao la toàn vũ trụ. Một cảnh sắc như thế không chỉ là hình ảnh thực về buổi bình minh mà còn là hình ảnh ẩn dụ cho buổi bình minh của thời đại mới – cũng như ánh cầu vồng sẽ tỏa rạng sau mưa dầm. Nếu không thấu hiểu quy luật cuộc sống và thái độ ung dung, hẳn Người không có được nét bút hùng tráng, chứa chan niềm tin như thế.
Thiên nhiên có sự vận động, nhân vật trữ tình cũng có sự chuyển biến. Thay cho “chinh nhân” là “hành nhân”. Gánh nặng gian khổ của bài thơ trước dường như đã được trút sạch khỏi đôi vai của “người đi”, để Người nhẹ bổng trong tư thế ung dung của thi nhân hòa mình với thiên nhiên, rạo rực trong nguồn thi hứng mỗi lúc một nồng nàn. Cụm từ “hốt gia nồng” bởi không phải thi hứng đột ngột xuất hiện mà đã có từ đầu chuyến đi, Người chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên từ sao và ánh trăng trên đỉnh núi. Cái ấm nồng của hồn thơ hòa điệu cùng sự ấm nồng của vũ trụ (noãn) tưởng như hơi ấm của buổi bình minh không chỉ tràn ngập thiên nhiên mà còn sưởi ấm lòng người.
Bốn câu thơ là sự cảm trước tương lai. Thông qua việc mô tả chân thực, sinh động cảnh sắc buổi bình minh, bài thơ gợi cho người đọc liên tưởng về buổi bình minh của đất nước, của nhân loại. Với cảm quan ánh sáng, Bác Hồ đã đưa vào thơ niềm tin và cảm hứng lãng mạn cách mạng say sưa, tươi thắm, hướng về ngày mai ánh sáng sau những ngày gian lao. Cảm hứng ấy của người khác với những nhà nhà văn hiện thực phê phán cùng thời, như Ngô Tất Tố chỉ thấy “tiền đồ tăm tối” của người nông dân trong “Tắt đèn”. Vũ Trọng Phụng thấy xã hội đi đến hồi vãn chung với đám tang bất tận của sự băng hoại giá trị tinh thần. Chính nhân sinh quan cách mạng lành mạnh, trong sáng đã tiếp thêm sức mạnh cho Bác và những nhà thơ cách mạng khả năng nhìn về tương lai tươi sáng của dân tộc.